↓↓ Đọc Truyện Mắt Biếc - Nguyễn Nhật Ánh Full
Pupy (Admin) 00:01, 16/09/2016 |
#1 |
Cô Thịnh chỉ bảo nhiệt tình nên tôi không dám bỏ đi, sợ cô buồn. Tôi ngồi nghe hờ hững và đợi cô nói xong là vội vàng tót ra cửa.
Một tay cầm đàn, một tay lái xe, tôi trốn vào rừng Sim. Ở đó, có lá reo và chim hót. Ở đó, có kỷ niệm. Tôi tha hồ thả hồn theo mây gió. Tôi tha hồ nhớ đến Hà Lan.
Hà Lan thật tệ. Suốt một tháng trời ra thành phố, nó chỉ về thăm làng có mỗi một lần. Lần nó về, trông nó lạ hoắc. Lối ăn mặc dung dị ngày nào đã biến mất. Bây giờ, nó mặc quần tây ống bó và chiếc áo tay phồng với đủ thứ thêu ren. Mái tóc của nó cũng đã được cắt ngắn, gọn gàng hơn nhưng cũng kiểu cọ hơn. Mỗi khi nhớ đến mái tóc dài thường xõa tung trong gió thuở xưa, tôi cứ thở dài thườn thượt, y như Nguyễn Bính ngày nào:
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều
Chỉ có đôi mắt Hà Lan là không thay đổi, vẫn đẹp lạ lùng. Đôi mắt đó nhìn tôi nói:
- Chừng nào Ngạn mới đi?
- Khoảng hai mươi ngày nữa.
Hà Lan khoe:
- Chừng nào ra thành phố, Ngạn sẽ thấy. Thành phố đẹp tuyệt vời. Đẹp hơn làng mình nhiều. Đẹp gấp nghìn lần phố huyện.
Nghe Hà Lan chê làng Đo Đo, tôi buồn lắm. Và giận nữa. Tôi định nói “Không ở đâu đẹp bằng làng mình” nhưng sợ Hà Lan cụt hứng, tôi cố nén. Tôi chỉ nói:
Làng mình cũng đẹp. Nhưng đẹp kiểu khác.
Lần đó, tôi nói với Hà Lan là từ khi nó ra đi, tôi rất nhớ nó. Và tôi hát cho nó nghe những bản tình ca tôi viết trong những ngày xa cách. Nghe xong, nó chỉ cười. Tôi hồi hộp đợi xem Hà Lan có nói nó nhớ tôi không. Nhưng tôi chỉ hoài công. Hà Lan chẳng nói gì về chuyện đó. Nó chỉ khen thành phố, và chê làng. Rồi bỏ đi.
Chỉ còn lại tôi, một mình khi chiều xuống.
Chương 5
Rồi cũng đến ngày tôi khăn gói ra thành phố, chuẩn bị cho năm học lớp mười.
Đúng như Hà Lan mô tả, thành phố đẹp nguy nga và lộng lẫy. Tôi tò mò ngắm nghía những đại lộ thênh thang, những tòa nhà cao vút, những cửa hàng bóng lộn và chất đống hàng hóa. Tôi như thằng ngố khi đứng trước các bảng điện nhấy nháy muôn màu của các rạp chiếu bóng và các vũ trường.
Sau vài ngày đi dạo quanh thành phố, tôi chắc chắn rằng nó giàu sang hơn cái làng nghèo khó của tôi gấp hàng tỉ lần. Tuy nhiên, tôi không chắc rằng nó có đẹp hơn làng tôi hay không. Nó quá ồn ào, lại lắm rác rến và bụi bặm, điều không hề có ở làng Đo Đo.
Thành phố vắng bóng những cây xanh. Ở trên cao, bầu trời bị chia cắt thành từng mảng nhỏ và tầm mắt tôi luôn luôn bị chặn lại bởi những dãy cột điện. Ở thành phố, khó lòng nhìn ngắm những đám mây bay, những đêm trăng sáng. Tôi không thể nào bắt gặp vẻ rầu rĩ huy hoàng của mặt trời lúc từ giã trời xanh. Đó là những điều Hà Lan không hề nhắc tới khi kể với tôi về thành phố.
***
Tôi không ở chung với cô Thịnh. Cô Thịnh ở nhà chị Nhường. Nhà chị Nhường rộng mà hóa chật. Phía trước là cửa hàng, phía sau là nhà kho, thỉnh thoảng tới chơi, tôi vẫn phải len lỏi giữa những cây vải chất thành từng đống, choán hết lối đi.
Tôi ở trọ nhà cậu Huấn. Cậu Huấn là anh ruột bác gái tôi. Xét ra, tôi với cậu chẳng bà con gì. Nhưng tôi vẫn gọi cậu bằng cậu. Tôi bắt chước chị Nhường.
Nhà cậu Huấn rất giàu, cậu có cửa hiệu thuốc tây. Thoạt tiên, thấy nhà cậu sang quá, tôi không dám ở. Nhưng bác tôi nằng nặc dẫn tôi đến đó. Bác trấn an tôi: “Cậu Huấn giàu nhưng sống giản dị, lại biết trọng kẻ sĩ”. Tôi chỉ là cậu học sinh lớp mười, nhưng bác tôi vẫn liệt tôi vào hạng… kẻ sĩ. Và bác dắt tôi đến ra mắt cậu Huấn. Tôi ở trọ nhà cậu Huấn từ đó.
Cậu Huấn có ba người con. Nhỏ nhất là thằng Liêm, đang học lớp bảy. Chị kế thằng Liêm là nhỏ Mai, bằng tuổi tôi. Nhỏ Mai học hết lớp chín, nghỉ ngang, ra bán ngoài hiệu thuốc tây, chuẩn bị làm bà chủ tương lai. Lớn nhất là Dũng, bạn bè thường gọi nó là Dũng Thanh Lâm. Thanh Lâm là tên hiệu thuốc của cậu Huấn. Dũng không thích tên đó, nó bảo nghe giống kép cải lương. Dũng tự đặt biệt hiệu cho mình: Dũng Marcel. Và, bắt chước Jo Marcel, nó thường nhún nhảy và rên rỉ hát “Thôi, em đừng khóc, em đừng khóc, đừng khóc nữa làm gì…” nghe rầu muốn chết.
Dũng lớn hơn tôi ba tuổi, nhưng trên giấy tờ nó bằng tuổi tôi. Nó phải khai sụt tuổi để trốn quân dịch. Dũng hát hay, nhảy giỏi nhưng học dở ẹc. Mải vui chơi, đàn đúm, nó quảng sách vở vào xó nhà, chấp nhận ở lại lớp nhìn đời trôi qua. Vì vậy, khi vào lớp mười, tôi học chung lớp với nó. Ngay hôm đầu tiên, cậu Huấn đã bảo tôi: “Cậu nghe nói cháu học giỏi, có gì cháu chỉ cho thằng Dũng với. Nó lười lắm!”. Tôi gật đầu.
Tôi nhận lời với cậu Huấn nhưng tôi chẳng làm tròn. Thằng Dũng là chúa lười, đúng như cậu Huấn nhận xét. Mỗi lần tôi kêu nó học, nó đều lảng đi chỗ khác. Nó chỉ khoái mỗi khoản cóp-pị Ở lớp, tôi và nó ngồi kế nhau, nó chép bài của tôi tha hồ. Nhờ có tôi, lần đầu tiên Dũng không phải học đúp lại lớp mười. Cuối năm, nó hí hửng khoe với cậu Huấn nó được lên lớp. Cậu Huấn mừng lắm và cậu cảm ơn tôi rối rít. Cậu tưởng tôi đã “cải tạo” được thằng Dũng.
Dũng chẳng lo học. Nó thường tụ tập với những đứa nhà giàu khác thành một băng và rủ nhau phóng honda ào ào trên phố hoặc chạy đua ra tận ngoại ô. Nó chơi billard rất thiện nghệ. Tôi đã từng lác mắt khi xem nó biểu diễn những cú đánh gom bi cực khó. Nó cũng mê đàn hát xướng. Trong phòng của nó có hai cây guitar điện và một bộ trống. Ngày nào đám bạn của nó cũng kéo tới chơi nhạc ầm ĩ khiến tôi không tài nào học bài được. Những lúc đó, tôi phải ôm tập xuống phòng nhỏ Mai và thằng Liêm ngồi học.
Hôm mới dọn đến, thấy trong hành lý của tôi có cây guitar, Dũng nheo mắt hỏi:
- Mày cũng chơi đàn nữa hả?
Tôi cười cười. Dũng nói:
- Mày đàn nghe coi!
Tôi đàn. Dũng chăm chú nghe, và chê:
- Cổ điển quá!
Tôi không hiểu:
- Cổ điển là sao?
- Là… là nhà quê!
Câu nói của Dũng khiến tôi đỏ mặt. Tôi buông đàn xuống ngồi im. Dũng chẳng thèm để ý đến vẻ sượng sùng của tôi, nó bước lại góc phòng, cầm lên cây guitar điện, hí hoáy so dây.
Dũng dạo tưng tưng vài nốt rồi nhìn tôi, hỏi:
- Mày biết chơi trống không?
Thấy tôi lắc đầu, Dũng khẽ so vai. Rồi nó bắt đầu hát. Bản “Beautiful Sunday”. Dũng vừa hát vừa lắc người, hệt những ca sĩ biểu diễn trên ti-vi. Giọng nó khá hay, vang và ấm. Trước một khán giả quê mùa và ngờ nghệch như tôi, Dũng cao hứng hát liền tù tì ba bài. “L amour c est pour rien”. Rồi “Aline”. Hát xong, nó hỏi tôi:
- Hay không?
Tôi gật đầu:
- Hay.
Dũng khoái lắm. Nó vỗ vai tôi:
- Nếu mày thích, tao sẽ kéo mày vào chơi chung với bọn tao.
Dĩ nhiên tôi từ chối. Dũng hát hay. Những bản nhạc cũng hay. Nhưng tất cả chẳng ăn nhập gì đến tâm trạng của tôi. Tôi thích những bản nhạc “cổ điển” của tôi hơn. Chúng đánh thức trong tôi những kỷ niệm xôn xao của làng quê yêu dấu. Chúng thủ thỉ với tôi về tình yêu thầm lặng. Chúng luôn hướng về người tôi thương.
***
Người tôi thương ở nhà bà cô. Cô Hà Lan là người chị cả trong dòng họ. Sau cô, đến ba Hà Lan, rồi mới đến ông chú chạy xe đò. Họ hàng bên nội Hà Lan hầu hết đều đi làm ăn xa, chỉ có ba Hà Lan là ở lại làng.
Chồng cô là thương gia cỡ lớn, chủ hãng sản xuất vỏ xe ô-tô. Nhưng hai vợ chồng lại không có con. Khi Hà Lan ra thành phố học, đến ở nhà cô, hai vợ chồng mừng như bắt được vàng.
Hà Lan ở nhà cô y như ở trên thiên đường. Đồ ăn, thức uống, áo quần, giày dép, kể cả tiền tiêu vặt, Hà Lan không thiếu một thứ gì. Bà cô chiều chuộng Hà Lan như chiều chuộng một thiên thần. Bạn Hà Lan cũng được cưng lây. Mỗi lần tôi đến chơi, cô đón tôi như đón khách quí. Cô dọn bánh biscuit mời tôi ăn. Cô mở tủ lạnh, khui cocacola bắt tôi uống. Tôi xấu hổ chín người. Cô làm như tôi chết đói chết khát đến nơi....