↓↓ Truyện Còn Chút Gì Để Nhớ - Nguyễn Nhật Ánh
Pupy (Admin) 00:01, 16/09/2016 |
#1 |
- Đi đâu mà đi hết ráo vậy?
- Đi bán hột vịt ở dưới chợ chứ đâu!
- Vậy thì anh đi xuống chợ.
Chợ gần, tôi thả bộ một lát đã tới nơi.
Không biết Trâm và Quỳnh ngồi bán ở đâu, tôi vừa len lỏi giữa các hàng quán vừa dáo dác tìm.
Đi gần suốt chiều dài chợ, tôi mới nhìn thấy Trâm và Quỳnh ngồi trước mấy thúng hột vịt bày trên một sạp gỗ nhỏ.
Chen vào giữa những bà đi chợ, tôi cúi xuống hỏi:
- Hột vịt muối bao nhiêu một chục, chị?
Hai chị em giật mình ngẩng đầu lên.
Thấy tôi, đôi mắt Quỳnh dường như sáng lên:
- Anh Chương đi đâu vậy?
Trâm cười:
- Ảnh đi báo tin thi đậu cho tao với mày chứ đi đâu!
Quỳnh ngó Trâm:
- Sao chị biết?
Trâm lại cười:
- Sao không biết! Nếu thi rớt ảnh đã nằm khoèo trên gác chứ lò dò xuống đây chi?
Quỳnh quay sang tôi:
- Đúng vậy không anh Chương?
Tôi gật đầu mà mặt đỏ bừng.
Trâm chẳng để ý đến điều đó. Thấy tôi đứng lớ ngớ, nó xích vô, nói:
- Anh ngồi xuống đây nè! Đứng xớ rớ cản đường thiên hạ, người ta rầy chết!
Tôi vừa ngồi xuống đã nghe Quỳnh nhắc:
- Anh cẩn thận kẻo hột vịt muối dính dơ quần áo hết.
Trâm tỉnh bơ:
- Dơ thì giặt chứ lo gì! Phải tập ảnh làm quen lao động để mai mốt ảnh còn xuống đây bán phụ với hai đứa mình chứ!
Nó nói y như tôi là chúa làm biếng không bằng! Nhưng độ rày nghe những câu nói “bổ củi” của Trâm, tôi không còn thấy ngán ngẩm như trước nữa. Từ khi phát hiện ra Trâm có “bề trong” rất tốt, khác hẳn với “bề ngoài” ngang ngạnh của nó, tôi cảm thấy mến nó nhiều hơn. Vả lại những điều Trâm nói, dù là nói đùa, lại rất hợp với mong muốn của tôi. Được ngồi suốt ngày bên cạnh Quỳnh, dù là ngồi bán hột vịt giữa chợ, đối với tôi là một hạnh phúc vô biên. Vì vậy, Trâm vừa nói xong, tôi hí hửng gật đầu:
- Ừ, mai mốt anh xuống đây bán phụ cho!
Quỳnh nheo mắt:
- Thật không?
Tôi quả quyết:
- Thật chứ!
Trên thực tế, suốt ba năm ròng rã sau đó, những khi rảnh rỗi tôi thường xuống chợ ngồi chơi với Trâm và Quỳnh. Đối với tôi, đó là những ngày đẹp đẽ đáng nhớ mà mãi hàng chục năm sau mỗi khi hồi tưởng lại tôi đều cảm thây như mới hôm qua.
Ngồi trò chuyện một hồi, đột nhiên Trâm nói:
- Bây giờ tôi mua bún riêu đãi anh hén?
Tôi chưa kịp trả lời thì Quỳnh nhăn mặt, can:
- Ai lại ăn giữa chợ!
Trâm nhìn tôi:
- Có anh, con Quỳnh nó làm bộ làm tịch chứ mọi khi nó ăn một lèo tới ba tô, tôi đuổi theo trối chết không kịp. Hứng lên, nó còn “chơi” liền tù tì mười cái bánh giò…
Quỳnh cấu Trâm:
- Chị kỳ quá!
Trâm vẫn không tha:
- Ăn nhiều mau lớn, mai mốt còn lấy chồng, có gì đâu mà mày giấu!
Rôì không đợi tôi có bằng lòng hay không, Trâm chạy đi kêu ba tô bún riêu.
Chẳng biết làm sao, tôi đành phải bưng tô bún ngồi húp sì sụp giữa chợ. Quỳnh cũng ăn tỉnh, vừa ăn cô bé vừa cười với tôi bằng mắt. Tự nhiên, tôi chẳng thấy xấu hổ chút nào. Ngồi ăn như thế này, với Quỳnh, kể cũng vui!
Ngồi chơi đến trưa, tôi phụ Trâm và Quỳnh đẩy chiếc xe con bốn bánh chở hột vịt về.
Ba người đẩy một chiếc xe, Quỳnh đi giữa, Trâm bên trái, tôi bên phải. Cả buổi ngoài chợ bị Trâm ngồi cản mũi kỳ đà, bây giờ được đi bên cạnh Quỳnh, tôi khoái lắm.
Nhưng tôi vừa hạ giọng nói nhỏ bên tai Quỳnh:
- Ngày mai anh lại ra chợ chơi nữa hén?
Quỳnh chưa kịp trả lời, Trâm đã liếc xéo:
- Ở đây không chơi nói chuyện thì thầm à nghen!
Biết Trâm phá “cho vui” nhưng thú thật kể từ lúc đó đến khi về tận nhà, tôi chẳng còn dám “hạ giọng” thêm một lần nào nữa.
Chap 13:
Ngôi trường tôi học nằm trên một con đường thật đẹp. Hàng cây điệp chạy dài hai bên, cứ tới mùa khai trường, bông điệp rắc đầy trên lối đi như một cơn mưa màu vàng, bám cả vào áo, vào tóc của bọn sinh viên chúng tôi.
Trường trông có vẻ cổ kính nhưng không kém phần thơ mộng. Mái ngói xám phủ đầy rêu lưu cữu nằm nấp dưới những tàng cổ thụ xanh um với những cành nhánh rậm rạp như muốn lợp kín cả bầu trời. Đằng trước dãy phòng học là một sân cỏ mềm, tươi mát nơi chúng tôi thường chia phe chơi cầu lông hoặc ngả lưng gối đầu trên cỏ ngắm trời xanh qua kẽ lá vào những trưa biếc.
Ngay từ những ngày đầu đi học, tôi đã yêu mến ngôi trường của tôi và tôi rất tự hào về vẻ đẹp lặng lẽ của nó.
Ba vị giám khảo trong kỳ thi vấn đáp hôm trước hóa ra là giáo sư của trường và năm nay đều dạy chúng tôi. Ông mập ngồi trong ba người, tôi yêu thầy dạy chữ Hán nhất, bởi thầy rất hiền lành, nho nhã và nhân hậu.
Trong lớp, Kim Dung ngồi kế bên tôi.
Hôm đầu tiên vào lớp, tôi không quen một ai nên ngồi thui thủi một mình dưới góc lớp. Số sinh viên Sài Gòn hầu hết đều học chung với nhau từ thời trung học nên bây giờ tụm lại nói chuyện tíu tít. Chẳng ai thèm để ý đến tôi.
Trong khi tôi đang ngồi ngơ ngơ ngác ngác giữa một đám đông xa lạ thì Kim Dung bước vào. Tấp vào đám bạn cũ nói chuyện dăm ba câu, chợt thấy tôi trong “xó” lớp, Kim Dung đi thẳng xuống:
- Sao ngồi buồn thiu vậy?
Tôi ấp úng:
- Có buồn gì đâu! Tại tôi không biết nói chuyện với ai!
Kim Dung ngồi xuống chiếc ghế cạnh tôi:
- Dễ thôi! Từ nay tôi sẽ ngồi chỗ này cho ông có người nói chuyện!
Nó tuyên bố như vậy và ngồi lì ở đó suốt bốn năm ròng rã, từ khi nhập học cho đến luc’ tốt nghiệp ra trường.
Nhà Kim Dung rất giàu. Ba nó là một thương gia cỡ lớn trong khi mẹ nó là một nghệ sĩ piano, dạy ở trường quốc gia âm nhạc. Sự kết hợp lạ lùng giữa hai con người này ảnh hưởng đến cuộc sống Kim Dung rõ rệt. Nó vừa có vẻ tài tử trí thức lại vừa có vẻ tay chơi bạt mạng.
Kim Dung đi học bằng xe honđda. Nó có thể đi học bằng ô- tô riêng, có tài xế đưa rước, như một số đứa nhà giàu khác nhưng nó không muốn. Nó bảo đi honđda tự do hơn, có thể đi chơi lông bông tùy thích.
Đi học chừng vài ngày, Kim Dung thực hiện cái phương châm “đi chơi lông bông” kia liền. Nó rủ tôi:
- Chiều nay ông đi chơi với tôi không?
- Đi đâu?
- Đi xi- nê.
Nhớ đến phim “Thằng khờ ra tỉnh” bữa trước, tôi đâm ngán:
- Thôi, tôi không đi coi phim đâu!
Kim Dung nhún vai:
- Xi- nê mà không đi! Vậy chứ ông muốn đi đâu?
Tôi ngập ngừng một lát rồi đáp:
- Đi sở thú.
Nó nhăn mặt:
- Ai lại đi sở thú! Đúng là nhà quê chúa!
Tôi đỏ mặt:
- Hồi nhỏ đến giờ tôi chưa thấy sư tử, cá sấu, đà điểu lần nào. Chỉ toàn xem trong sách!
Nó thở dài:
- Thôi được! Lát học xong tôi chở ông đi!
Tôi trố mắt:
- Còn chiếc xe đạp của tôi!
- Thì cứ để ở trường, chiều về lấy.
- Rủi mất sao?
- Chiếc xe cà tàng của ông ai lấy mà mất!
Chiếc xe tôi mới sơn phết láng coóng mà nó dám bảo xe cà tàng. Tôi giận thầm trong bụng nhưng không nói ra.
Thấy tôi có vẻ chưa yên tâm, Kim Dung lại nói:
- Ông cứ yên chí đi! Mất một chiếc tôi đền cho hai chiếc!
- Nhưng…
- Còn nhưng với nhị gì nữa?
- Trưa tôi còn phải về nhà ăn cơm rồi mới đi được.
Kim Dung phất tay:
- Khỏi ăn cơm! Mua bánh mì đem theo. Vô sở thú vừa coi sư tử vừa gặm bánh mì. Gọn chán!
Nó giải quyết mọi chuyện một cách dứt khoát, gọn gàng.
Khi Kim Dung dắt xe ra, tôi giành chở.
Nó không chịu:
- Thôi, để tôi chở! Ông đâu có rành đường sá trong này!
Tôi nhăn nhó:
- Ai lại ngồi sau lưng con gái! Kỳ lắm!
- Có gì đâu mà kỳ!
- Thôi, để tôi chở cho! – Tôi khăng khăng.
Kim Dung nhường tay lái cho tôi với vẻ nghi ngờ:
- Ông chạy được không đó?
Tôi mỉm cười:
- Ăn nhằm gì! Nhà tôi ngoài quê cũng có honđda!
Tôi chở Kim Dung chạy chầm chậm. Đường phố nhộn nhịp, xe cộ đan qua đan lại như mắc cửi, tôi vừa chạy vừa dáo dác dòm chừng, không dám phóng nhanh....